Thứ Sáu, 12 tháng 10, 2012

Vậy là tôi về làm dâu nhà mẹ đã được 13 năm. Cũng là 13 cái Tết tôi được cùng mẹ chuẩn bị món chè kho ngọt bùi, thơm dịu.
Mẹ chồng tôi kể, món chè kho này mẹ học từ bà ngoại của chồng tôi và mẹ bắt đầu tập làm từ khi còn 14-15 tuổi. Ngày đó, đỗ xanh tách vỏ chưa bày bán nhiều như bây giờ, thậm chí còn nguyên cả hạt đỗ chưa tách đôi. Khi mua về, bà ngoại và mẹ phải dùng một chai 65 để cán đỗ. Đặt một chiếc thớt ở dưới, cho đỗ xanh lên trên rồi dùng cái chai lăn đi lăn lại để đỗ tách làm đôi. Chế biến chè kho hết sức công phu và trải qua nhiều công đoạn. Nào ngâm đỗ, đãi đỗ, đồ đỗ. Tiếp đến là khâu giã đỗ, giã đỗ phải giã mạnh, giã đều tay, có vậy đỗ mới mịn.

Sau khi đỗ đã được giã nhuyễn, mẹ nắm lại thành từng nắm, dùng dao thái lát mỏng cho đỗ tơi ra, lọc kỹ những hạt đỗ không chín bở. Còn nhớ dạo tôi mới về làm dâu, tôi cũng hăng hái xin giã đỗ, nhưng giã được một lúc là hai tay mỏi nhừ. Giã nhẹ nên khi nắm lại, thái ra thấy rõ những chỗ lổn nhổn, chưa mịn. Tôi phải nhờ cậu em chồng mạnh tay giã lại.

Khâu pha chế nước và đường cũng quan trọng không kém. Theo kinh nghiệm của mẹ chồng tôi, thường thì 1kg đỗ xanh sẽ dùng khoảng nửa lít nước và 7-8 lạng đường kính. Để đường ngấm đều vào đỗ thì nên cho đường vào nước đun trước, cho thêm vài hạt muối, sau đó mới đổ đỗ đã tơi vào nồi.

Vừa ngồi khuấy chè, tôi vừa được mẹ truyền kinh nghiệm: "Lúc mới bắc lên bếp, con có thể để lửa to, nhưng khi nồi chè bắt đầu sôi, con nên vặn nhỏ lửa và phải luôn khuấy đều tay, khuấy đũa xuống tận đáy nồi, có như vậy chè mới không bị sém. Con nhớ là không nên sốt ruột vặn lửa to cho chè nhanh cạn nước, vì như vậy chè rất dễ bị khê, còn nếu ngay từ đầu con cho ít nước, chè nấu không đủ độ, dễ bị khô khiến bề mặt chè bị nứt, trông không đẹp và chè cũng nhanh thiu". "Thế khi nào thì chè được hả mẹ? Chắc cũng phải mất mấy tiếng đồng hồ ấy mẹ nhỉ!?". Mẹ chồng tôi cười hiền từ "Con dùng chiếc đũa khuấy chè, nhúng vào nồi chè rồi vẩy nhẹ chè vào một chiếc bát sạch. Nếu chè không bị dính bết vào bát mà dóc bát thì khi đó chè kho đã được".

Vừa múc chè ra những chiếc đĩa nhỏ xinh, mẹ chồng tôi vừa bảo: "Đĩa này để cúng giao thừa, đĩa kia cúng sáng mồng 1, những đĩa khác để tiếp khách quý..., con nhớ nhé, chè kho chỉ nên đựng trong những chiếc đĩa nhỏ nhỏ và hơi sâu lòng một chút. Đây là một món ăn vô cùng giản dị những lại hết sức thanh tao của người Hà Nội xưa đấy con ạ!

Mẹ tôi nhẹ nhàng rắc những hạt vừng trắng đã rang thơm lên trên, sau đó dùng chiếc thìa khô ấn nhẹ cho chè mịn đều. Và bao giờ cũng vậy, chờ chè nguội mẹ chồng tôi dùng chiếc dao mỏng, xắt chè làm 8 miếng nhỏ hình hoa thị và cả nhà quây quần bên ấm trà sen. Vị ngọt bùi của chè kho, vị chan chát của trà, hương thơm của vừng rang, tất cả đan quyện vào nhau tạo nên một hương vị Tết thật khó quên!

Dịp áp Tết Nhâm Thìn vừa rồi không may mẹ chồng tôi lại phải nằm viện. Mẹ buồn rầu: "Có lẽ Tết này mẹ không làm được chè kho rồi!". Tôi động viên mẹ: "Mẹ ơi! Chắc ngày mai, mẹ sẽ ra viện thôi mà, mẹ chỉ cần ngồi một chỗ "tổng chỉ huy", chúng con sẽ thay mẹ làm chè, Tết này nhất định gia đình mình vẫn có chè để cúng Giao thừa, cúng mồng 1". "Ừ, nếu thế thì mẹ yên tâm, mặc dù trên bàn thờ gia tiên của gia đình mình đã có nhiều hoa quả, bánh, mứt, kẹo nhưng mẹ vẫn mong có một đĩa chè kho để mời ông bà, tổ tiên con ạ!".
    Diệp Thư   

Trong những ngày Tết Nguyên Đán, bên cạnh bánh chưng, dưa hành, giò, chả... nhiều gia đình Việt Nam thường làm món chè kho đãi khách.

Người Việt gọi là chè kho vừa để phân biệt với các loại chè đỗ xanh khác, vừa nói lên sự kỳ công khi làm món chè này.

Chè được nấu từ đỗ xanh, đường, hương hoa bưởi. Chè kho ngon phải đạt độ vàng sánh mịn, thật khô, ngọt đậm và thơm. Khi múc chè ra đĩa rắc lên mặt một lớp vừng trắng đã đãi sạch và rang.

Cái độc đáo của món ăn này là để được lâu mà không cần bảo quản cầu kỳ bởi lẽ nó sử dụng lượng đường nhiều hơn so với những món ăn ngọt khác.

Hương vị của chè kho thật đặc biệt, ăn vừa mát, vừa mềm dẻo, vừa có độ mịn và thơm ngon của đỗ xanh lại có mùi hương thoang thoảng của hoa bưởi. Ngày Tết, miếng chè kho giúp làm giảm đi cái cảm giác chán ngán do thức ăn nhiều chất đạm, chất béo.

1. Nguyên liệu:

- Đậu xanh: 1kg
- Đường: 1kg
- Vừng trắng: 100gr rang vàng
- Nước ấm
- Một chút hương hoa bưởi

2. Cách làm:

- Chọn đỗ xanh hạt tiêu xay vỡ đôi (hạt nhỏ lòng vàng). Sau khi ngâm đỗ nửa ngày, đem ra đãi vỏ, rắc vào vài hạt muối, để ráo nước rồi đem đồ trong chõ.

- Đỗ xanh đồ chín đem giã nhuyễn, nắm thành từng nắm. Dùng dao thái lát mỏng cho đỗ tơi và mịn.

- Cho đường trắng vào nước ấm đánh cho tan đường, trộn đều với đậu và đem đun nhỏ lửa, khuấy đều tay, gần được thì cho một chút hương hoa bưởi.

- Yêu cầu khi nấu chè kho phải đạt độ vàng, ngọt đậm và thơm. Khi múc chè kho ra đĩa phủ một lớp vừng trắng đã rang vàng lên. Chè kho để nguội hãy xắt ra từng miếng hình hoa thị và thưởng thức./.

(Báo Ảnh Việt Nam/Vietnam+)

Dân dã món chè kho

Vị bùi, thơm đậm đà cộng thêm chút quyện dẻo của đậu xanh, vị ngọt đượm của mật mía, hương bưởi phảng phất, vị nồng thơm của thảo quả, quế chi…tất cả đã đánh thức giác quan người thưởng thức món chè kho độc đáo của người Việt.
Ở nước ta chè kho là món ăn không phổ biến mấy, ngoài một số tỉnh như Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định…thì chè kho Bắc Giang cũng rất nổi tiếng. Là món ăn xuất hiện nhiều trong các ngày lễ tết của dân tộc, của làng quê, những lúc nông nhàn hay mùa vụ đã xong nhân dân lại làm chè kho cho cả gia đình thưởng thức sum vầy, quây quần bên nhau đầm ấm.
Các công đoạn làm chè kho cũng không quá cầu kỳ nhưng đòi hỏi phải có sự khéo léo và kinh nghiệm của người làm. Để có món chè kho thì nguyên liệu chính không thể thiếu được là đỗ xanh, chọn loại đỗ hạt mẩy, lòng vàng óng nhặt sạch đem ngâm trong nước chừng 4-5 giờ đồng hồ, mật mía hay đường, thảo quả, quế chi và hương liệu hoặc tinh dầu hoa bưởi.
Ngâm đỗ xanh đến lúc vỏ đã nở trương thì đãi sạch lớp vỏ bên ngoài bỏ đi, vớt hạt lòng vàng ra rá để ráo nước rồi trộn thêm chút muối cho đậm đà, đem vào nồi đồ như đồ xôi, sao cho hạt đỗ xanh nở bung và chín nhừ rồi bắc ra. Công đoạn tiếp theo là bỏ đỗ đã chín nhừ vào cối giã cho thật nhừ, nhuyễn và mịn dẻo quyện vào nhau.
Đem tất cả đỗ xanh đã giã vào nồi, bỏ thêm mật mía hay đường đã hòa tan rồi bắc lên bếp đun đều lửa, công đoạn này cần có  kinh nghiệm của người đầu bếp, điều chỉnh ngọn lửa sao cho cháy liu riu để nồi chè kho không bị cháy khê đồng thời dùng đũa cả quấy đều tay sao cho chè kho không bị đóng bánh, đóng hòn, quấy đến khi nào bốc hơi nước gần hết và nồi chè kho đặc quyện và sánh vào nhau là được, khi chuẩn bị bắc nồi chè kho xuống bếp người ta bỏ tinh dầu hoa bưởi, thảo quả, quế chi vào nồi quấy đều.
Sau khi chè kho đã được nấu xong ta múc ra đĩa và rắc một lớp hạt vừng rang lên trên lớp mặt vừa để trang trí vừa cho chè kho có phần thơm và béo ngậy. Cắt từng lát chè kho trên đĩa theo hình hoa thị, trông thật đẹp mắt, cuốn hút, chè kho nấu xong có màu vàng nhạt xen lẫn màu nâu, thưởng thức chè kho thường là lúc nguội sẽ ngon hơn.

Ngọt bùi chè kho

Cũng như nhiều gia đình miền Bắc, chè kho là món không thể thiếu trên bàn thờ ngày Tết ở nhà chồng tôi. Năm đầu về làm dâu, mẹ chồng dạy tôi nấu món ấy. Dù đã được thưởng thức, nhưng đó là lần đầu tiên tôi biết chè kho được nấu như thế nào.

Từ trước Tết, mẹ chồng tôi đã chuẩn bị rất kỹ nguyên liệu chính là đỗ xanh. Phải là đỗ xanh lòng vàng, nhặt kỹ hết sạn, hạt sâu, hạt lép, hạt đỗ "nhọn đít" (những hạt này không thể chín, cứ rắn đanh dù nấu kỹ). Đường cát trắng, vừng xát vỏ, chút nước hoa bưởi hay vani cũng được chuẩn bị.
Đỗ xanh được ngâm nước ấm từ đêm 29 Tết, sáng 30 đem đãi sạch vỏ. Đỗ để ráo, rắc chút muối rồi đem thổi hoặc đồ lên cho chín. Chõ đậu chín vàng ươm, bở tơi, bốc hơi thơm ngậy được cho vào cối giã nhuyễn, nắm thành từng nắm. Đứa em thập thò được chị dâu dúi cho một nắm con con, chạy biến.
Mẹ lấy con dao thật sắc, lưỡi mỏng, nhanh tay thái từng nắm đỗ đã nguội. Bột đậu rơi xuống đều đặn tơi mịn.
Nồi chè kho luôn được mẹ chồng tôi nấu vào tối 30 Tết, khi bữa cơm tất niên đã dọn dẹp xong. Mẹ lấy lượng đường ngang bằng lượng đậu, cho vào chút nước rồi đặt lên nấu cho tan. Đun nhỏ lửa thôi, nước đường sôi liu riu đến khi đặc sánh lại gọi là đường "đến". Mẹ luôn đặt bát nước lã bên cạnh, thỉnh thoảng nhúng đầu đũa vào nước đường rồi nhanh tay nhỏ vào bát nước. Khi giọt đường không tan loãng ra mà vo tròn lại ở đáy bát, ấy là đường đã "đến" rồi.
Mẹ bắc nồi nước đường xuống, bóp tơi bột đậu rắc dần vào nồi nước đường, tay kia vẫn không ngừng quấy bằng chiếc đũa cả. Sau đó là công đoạn tốn sức và phải chú ý nhất. Đặt nồi bột lên bếp, đun nhỏ lửa, đều tay quấy liên tục. Bởi nếu ngơi tay quấy hoặc quấy không chú tâm là bột sẽ vón lại, đường bén nồi và khi ấy thì khó chữa lắm. Tay đũa nặng dần, bột đậu quánh lại, càng phải dùng sức nhiều hơn. Khi đường bám quanh thành nồi đã trắng ra là chè đã được. Mẹ cho chút vani hay nước hoa bưởi, hương thơm nhẹ mát tỏa ngát thật quyến rũ.
Rồi mẹ múc chè ra những chiếc đĩa nhỏ xinh xắn được chuẩn bị từ trước, nhẹ tay sửa cho đĩa chè mịn đều. Vừng xát vỏ rang vàng sau đó được rắc lên mặt đĩa chè. Mâm chè vàng thơm hoàn toàn được mẹ đậy lồng bàn rất cẩn thận.
Những năm đầu làm dâu, tôi ngại tiết mục nấu chè kho lắm. Những ngày giáp Tết thường giá rét, để đãi xong chậu đậu, đôi tay người đãi đỏ ửng, lạnh cóng. Có năm quên tí muối, năm thì quá tay nước nên đỗ nát, ướt nhoẹt. Rồi cả mấy chục phút ngồi quậy nồi bột bở hơi tai, mỏi rã cả tay. Nếu vì mỏi tay mà bắc ra sớm, đường chưa "đến" thì chè sẽ bị ướt, chảy nước. Nhớ nhất có năm vì mải khách tới, mẹ lại không có nhà, tôi đã quên nồi chè đang quậy dở. Khi nhớ ra thì bột đã khét, không còn cách nào cứu nổi.
Tôi lo xanh mặt vì đó là món không thể thiếu trên bàn thờ lúc cúng giao thừa. Chỉ còn hơn một giờ nữa là giao thừa, tôi và chồng cuống quýt nấu nước sôi, ngâm đỗ mới, đãi vỏ, thổi chín, giã nhuyễn, nắm lại, thái ra... Rồi vợ chồng thay nhau quấy, vừa làm vừa nhìn đồng hồ. Thật may mắn, những đĩa chè kho xinh xắn đạt yêu cầu hoàn thành vừa vặn trước 0 giờ đúng 5 phút!
Phút sang canh, khi đất trời thiêng liêng trong thời khắc chuyển tiếp, bàn thờ sáng đèn nến, nghi ngút khói nhang thơm, những đĩa chè kho được bố chồng tôi kính cẩn đặt lên dâng tổ tiên. Món chè kho không cao sang nhưng tôi cảm nhận được sự thành kính của mẹ chồng mình trong cách làm thật cẩn thận, kỳ công. Đĩa chè đủ ngọt thơm bùi béo đậm đà mà thanh khiết, được lưu trên bàn thờ suốt mấy ngày Tết. Chè kho để được lâu vì lượng đường nhiều, đủ bảo quản chè không hỏng.
Cúng xong, cả nhà quây quần chúc Tết. Chồng tôi pha ấm trà thật ngon. Tôi cắt đĩa chè hình hoa thị bằng con dao mỏng sắc. Những lát chè mịn màng, cầm không dính tay. Cả nhà nâng chén trà nóng thơm, nhấm nháp lát chè kho mềm mịn. Vị chè kho ngọt thanh quyện với hương trà thơm ngát, khói nhang đầm ấm trong phút giây đầu năm mới, để cả nhà thanh thản trong thương yêu, mong một năm mới với những điều tốt lành... Những ngày Tết, khách quý đến, bố mời dùng lát chè thơm ngọt với chén trà sen, câu chuyện ngày xuân càng đậm đà ý vị...
Đến bây giờ, mẹ chồng tôi vẫn giữ nếp nhà trong đĩa chè kho ngày 30 Tết. Món ăn giản dị nhưng đậm đà ấy ẩn chứa cả sự khéo léo tần tảo của người đàn bà trong gia đình. Sâu xa hơn nữa là để con cháu biết trân trọng thành kính với ông cha. Chè kho cũng trở thành nét riêng trong gia đình nhỏ của tôi, dù ở xa quê, mỗi khi Tết đến...

 

Chè kho

Chè kho là một trong những món ăn ngày Tết không thể thiếu. Được làm từ các nguyên liệu đơn giản: đỗ xanh và đường trắng, thêm một chút vani nữa, trên điểm mấy hạt vừng rang kỹ.  Ấy thế mà món ăn có một vị trí thật đặc biệt.  Đĩa bánh vàng được đơm gọn ghẽ trên chiếc đĩa sứ trắng phau, bày lên bàn thờ tổ tiên.  Bánh, mứt, kẹo là để khi đãi khách đến.  Mấy ngày trong Tết, bữa cơm với chiếc bánh chưng, bát canh măng, đĩa bóng xào, với nào nộm nào gỏi… tráng miệng chỉ bằng thứ bánh thanh tao này và một tách trà hoa Cúc thôi.
Chè Kho phải được bày lên đĩa, đong bằng đĩa.  Chiếc đĩa men sứ cũng chính là chiếc “khuôn”. Định nén chè vào những chiếc khuôn bóng bẩy đẹp đẽ, nhưng nghĩ lại… như thế không ra chè kho nữa rồi. Miếng chè phải có hình quạt cắt thành từng miếng nhỏ vừa cầm tay.  Đừng bao giờ đơm chè vào đĩa to quá,;và nếu có biếu ai, thì hãy gói chè bằng miếng lá chuối xanh mướt, buộc ở ngoài sợi lạt đỏ nữa nhé.
Công thức:
Nguyên liệu:
- 500g đỗ xanh
- 300g đường
- 1 chút vani
- 1 chút muối
Cách làm:
Chè  Kho có hai cách nấu. Tất cả hai cách đều phải chọn đỗ xanh thật ngon, vàng, bở tơi.  Vò đỗ, ngâm nước cho nở, sau đó lại đãi sạch. Vớt đỗ để ráo nước.
Cách khuấy chè từ bột: Đỗ sau khi đã được ngâm sạch thì đem rang khô, xay thành bột mịn.  Khi nấu, hòa bột vào với nước và đường, chút muối. Đặt lên bếp khuấy từ từ cho đến khi chè chín, sánh đặc.
Cách “kho” chè từ đỗ chín: Hấp chín đỗ, giã tơi khi đỗ còn nóng. Rây qua rây cho thật mịn.  Loại bỏ những hạt đỗ sượng.  Trộn đường và nhúm muối, xào khô trên bếp.
Cuối cùng đơm ra đĩa, rắc vừng đã rang vàng lên trên.
Chè kho không cần bảo quản trong tủ lạnh mà có thể để ngoài 7-10 ngày bởi là món có lượng đường tương đối nhiều.  Trong khi làm cũng cần sử dụng dụng cụ thật sạch sẽ.
——
Note: Trang mới “TẾT NGUYÊN ĐÁN” đã được đưa lên 1 tab tại đầu trang để tiện tra cứu các món có thể dùng trong dịp Tết.

Thứ Ba, 25 tháng 9, 2012

Thăm làng cổ Đường Lâm với đặc sản Chè Kho

Làng cổ Đường Lâm thuộc thị xã Sơn Tây, cách trung tâm Hà Nội hơn 40km, là một trong những địa chỉ thu hút đông khách du lịch tới thăm vào những ngày cuối tuần. Cái nóng của mùa hè miền Bắc cũng không làm cho bước chân du khách thấy nản. Bởi rời xa được chốn đô thị ồn ào, làng cổ Đường Lâm hấp dẫn những bước chân thích khám phá bằng những nếp nhà cổ kính và không gian văn hóa của một ngôi làng Việt xưa có sức sống trường tồn theo năm tháng.

 
Cổng làng Đường Lâm

Chỉ mất hơn một giờ đồng hồ đi xe, du khách đã có mặt ở làng cổ Đường Lâm. Ngay từ phút đầu tiên đi trên con đường vào làng, khung cảnh hai bên khiến cho du khách thấy thực sự bình yên. Những ruộng lúa đang thì con gái, những ao sen đang chuẩn bị đón hè. Đi qua chiếc cổng làng đi vào thôn Mông Phụ, du khách không nên bỏ lỡ dịp chụp vài tấm ảnh làm kỷ niệm. Vẻ đẹp của chiếc cổng làng không chỉ nằm trong khung cảnh thiên nhiên xanh mát mà còn ở lối kiến trúc. Cổng làng không có gác như nhiều cổng làng khác. Làng cổ Đường Lâm, mỗi góc nhà, mỗi con đường đều mang đặc trưng khác nhau vì thế sẽ đem đến cho du khách nhưng trải nghiệm phong phú.


Ông Nguyễn Trọng An, Phó trưởng ban quản lý làng cổ Đường Lâm, cho biết: "Trong 5 thôn của  làng cổ Đường Lâm thì chúng tôi xác định thôn Mông Phụ là khu vực trung tâm rất nhiều di tích. Trong đó có những loại hình di tích quan trọng như đình, nhà cổ, nhà thờ họ.,.. Bốn thôn còn lại cũng còn nhiều di tích quan trọng . là địa chỉ thường xuyên thu hút du khách đến tham quan"


Một trong ba ngôi nhà cổ nhất

Làng cổ Đường Lâm hiện có gần 1000  ngôi nhà truyền thống trong đó các làng Đông Sàng, Mông Phụ và Cam Có những ngôi nhà được xây dựng từ thế kỷ 17. Khách du lịch đến làng cổ Đường Lâm thường đến thăm nhà ông Huyến, ông Lê, ông Hùng. Đó là những ngôi nhà cổ nhất và đẹp nhất ở thôn Mông Phụ. Điều hấp dẫn là khi đến đây, du khách sẽ được chính người chủ ngôi nhà giới thiệu. Cạnh thôn Mông Phụ là thôn Đông Sàng, có khoảng 10 ngôi nhà cổ, còn giữ được nguyên vẹn đến giờ. Chị Nguyễn Thị Thu Hoài, hướng dẫn viên của Ban quản lý làng cổ Đường Lâm, cho biết: "Tất cả kết cấu ở làng Đường Lâm này giống nhau vì ở cấu trúc chính của nhà vẫn là những hàng chân cột và có lối kiến trúc là chia gian ra. Những nhà ngày xưa là nhà quan giàu có hay địa chủ mới xây dựng được những nhà lớn như vậy . Những nhà nhỏ ngày xưa là nhà tranh vách đất. Những nhà lớn là 5 gian, 2 dĩ hay là 7 gian 2 dĩ . Nhà quan văn hay quan võ thì có những đặc điểm khác nhau . ở đây nhà quan văn thì có nhiều bức hoành phi câu đối được treo trong nhà còn với nhà quan võ thì chủ yếu họa tiết hoa văn bằng rồng hoặc hoa văn theo thời đại."

Nhưng điều khác biệt mà ngôi nhà của Bà Vũ Thị Ấm, một trong những ngôi nhà cổ ở thôn Đông Sàng đó là gian thờ tổ tiên. Ở gian thờ chính  có hình chạm khắc  hoa văn hình đầu rồng mà ở bên thôn  Mông Phụ không có. Hay ngôi nhà của ông Kiều Anh Ban được xây dựng năm 750 dưới triều đại vua Lê Hiển Tông đến nay vẫn còn giữ được nguyên vẹn từ các bục cửa, cánh cửa, các hoa văn. Ông cho biết gian thờ cũng là điều đặc biệt của ngôi nhà: "Gia đình còn giữ được nguyên vẹn đặc biệt là gian giữa để thờ tổ tiên. Một gian giữa dùng để thờ cúng của ngôi nhà thờ đầy đủ được chia làm 4 cấp thờ. Cấp trong cùng là khán thờ dùng để di ảnh, ngai thờ, kế đến là sập thờ để bày biện lễ nghi, lễ vật mỗi khi có cúng, giỗ và thắp hương ở bàn hương án. Khấn xong sẽ đem hạ lễ ở sập gụ cổ ở tầng ngoài cùng để con cháu thụ lộc. Đó là nghi lễ thờ cúng gia tiên được gia đình gìn giữ."

 
Những lối ngõ Đường Lâm

Ngoài các nhà cổ, đến với làng cổ Đường Lâm, du khách còn được thăm chùa Mía, đình Mông Phụ…Tham quan những nghề thủ công, truyền thống ở đây. Bà Lê Thị Kim Nhung, người làng Đường Lâm cho biết: "Làng nghề có nhiều sản phẩm nổi tiếng. Khi đến Đường Lâm mọi người đều biết nghề làm bánh:  có bánh rán, bánh tẻ, bánh chưng, hay làm kẹo như kẹo dồi, lạc, vừng, nhiều nghề truyền thống như mộc, rèn…Chúng tôi cũng mong muốn những nghề truyền thống có từ lâu đời phát triển thì khi khách du lịch đến thăm quan làng cổ Đường Lâm ngoài biết đến làng nghề còn để mua sản phẩm ."

Đặc sản Đường Lâm có món tương nức tiếng không thua kém gì tương Bần-Hưng yên. Hay các món ăn ở làng do chính tay người dân nơi đây chế biến cũng hấp dẫn vô cùng. Chị Aiko, tình nguyện viên đến từ Nhật Bản vô cùng thích thú với những món ăn ở đây: "Đầu tiên đến Đường Lâm, phong cảnh ở đây rất đẹp nhưng người dân chưa biết làm hướng dẫn viên du lịch nhưng nay thì nhân viên của Ban Quản lý và người dân ở đây biết hướng dẫn du lịch rồi. Đường Lâm có nhiều nhà cổ, nhà truyền thống, đặc trưng người dân biết về văn hóa, phong tục của đường Lâm nên du khách đến đây họ có thể hướng dẫn được cho du khách. Tôi ấn tượng nhất là món ăn, người dân Đường Lâm rất giỏi nấu ăn, tôi còn thích các loại kẹo như kẹo lạc, kẹo vừng, chè lam, chè kho…"

Đường sá đi lại thuận tiện và gần với thủ đô Hà Nội nên hầu hết khách du lịch đều đi trong ngày. Đến đây, du khách có thể đi bộ hoặc thuê xe đạp để khám phá tất cả những con đường lát gạch, hay  sà vào bất cứ ngôi nhà cổ nào của người dân Đường Lâm. Một ngày tham quan, khám phá ngôi làng cổ này chắc chắn đem lại cho du khách những cung bậc cảm xúc khác nhau. Trong dịp nghỉ lễ 30/4, bạn hãy dành một ngày để khám phá Đường Lâm, bao điều thú vị đang chờ đón bước chân du khách tới chiêm ngưỡng./.

Làng cổ Đường Lâm với đặc sản Chè Kho - Duong Lam ancient Village





Thời điểm chúng tôi đến thăm Đường Lâm là vào cuối vụ lúa mùa, đường làng ngõ xóm đâu cũng thấy rơm phơi vàng rượm. Mùi lúa mới pha lẫn mùi nắng cuối thu khiến những kỉ niệm tuổi thơ lại ùa về trong tôi.

Tôi sinh ra và một phần tuổi thơ tôi lớn lên trong một ngôi làng nhỏ ở miền núi phía Bắc. Ông bà nội tôi là người gốc Hải Dương nên mang theo cả kiến trúc ngôi nhà gỗ 3 gian của đồng bằng Bắc Bộ về đây. Gia đình tôi không làm nông nhưng hình ảnh đường làng ngõ xóm thơm phức mùi rơm phơi luôn khiến đôi mắt trẻ thơ của tôi háo hức mỗi khi được về thăm quê.

Đi cùng đoàn với tôi hôm đó có cả người Việt Nam và người nước ngoài, có người mới ngoài đôi mươi, có người đã trải nghiệm hơn nửa cuộc đời. Mỗi nền văn hoá khác nhau, mỗi độ tuổi và sự trải nghiệm cuộc sống khác nhau lại tìm thấy ở Đường Lâm một vẻ đẹp khác nhau. Mấy vị khách nước ngoài thích thú với chiếc cối xay thóc cổ nhưng lại nhăn nhó với sự cổ kính của ...nhà vệ sinh. Các bạn trẻ lại coi những bức tường đá ong sù sì đẹp đến hút hồn và những chiếc chum tương là một studio để thoả sức tạo dáng chụp ảnh. Còn các vị khách trung niên thì thích trầm ngâm ngồi bên bộ trường kỷ cũ kỹ và nhấp từng ngụm chè xanh chan chát, mắt đăm chiêu nhìn lên tấm câu đối khảm trai đã hoen ố vì thời gian.

Chúng tôi đến thăm ngôi nhà cổ của gia đình ông Thể. Ngôi nhà này không phải là ngôi nhà cổ nhất trong làng nhưng sự đón tiếp niềm nở, hiếu khách của vị chủ nhà khiến tất cả mọi người trong đoàn tìm thấy nhiều điều thú vị ở đây. Gia đình ông là đời thứ 13 sống trong ngôi nhà này. Ngôi nhà có 7 gian, 2 đĩ, xây theo kiến trúc “tiền kẻ hậu bẩy”, mái cong cánh diều. Ngôi nhà gần như nguyên vẹn từ khi mới xây. Gia đình ông vẫn giữ được những vật dụng cổ do các cụ để lại như giường cổ, tủ chè cổ, sách cổ của Hải Thượng Lãn Ông. Là con cả trong nhà nhưng gia đình ông không giầu, mãi đến năm ngoái nhờ sự giúp đỡ của Sở Du lịch và chính quyền mà ông đã mua được 4 vạn ngói ri cổ về để sửa mái. Sự kiện đó đã khiến cho cụ ông thân sinh ra ông không khỏi xúc động bởi “cả đời cha nghèo nên không thể sửa sang được căn nhà, giờ nhà được sửa cha mừng lắm”. Sau khi nhà sửa được ít lâu thì cụ ông mất. Ông Thể kể lại câu chuyện của cha mình mà trong đôi mắt ông ngân ngấn lệ.



Chủ nhà đãi chúng tôi bằng một bữa cơm quê thịnh soạn gồm cá sông Hồng, thịt gà mía đặc sản, chả nem rán, bánh tẻ, được tráng miệng bằng chè kho và một đĩa chè lam. Trong hơi men êm êm của rượu nếp, chúng tôi được nghe chủ nhà kể chuyện về lịch sử của làng, về những biến cố của dòng tộc, cả những tâm sự đau đáu về giàu nghèo, về sự gìn giữ nét văn hoá cổ trong thời đô thị hoá và nền kinh tế thị trường.

Khi nói về Đường Lâm, ngoài cái tên “đất hai vua” để chỉ về vùng đất sản sinh ra hai vị vua là Ngô Quyền và Phùng Hưng, thì người ta còn gọi Đường Lâm bằng một cái tên rất trìu mến là “làng Việt cổ đá ong”. Không biết có phải vì vẻ bề ngoài ghồ ghề, lỗ chỗ mầu vàng nâu (có người gọi là mầu đỏ gan gà) như tổ ong, mà người ta gọi cái thứ đá đem đến cho những ngôi làng nơi đây một vẻ đẹp rất riêng kia là đá ong. Khi mới đào lên từ lòng đất thì đá ong khá mềm, người dân có thể cắt thành từng viên vuông vức bằng một chiếc khuôn chuyên dụng. Càng để lâu, đá ong càng cứng, càng sần sùi, ghồ ghề, mầu vàng nâu chuyển thành nâu sậm như được tráng một lớp socola vậy. Gạch đá ong được sử dụng ở hầu hết các công trình ở Đường Lâm như xây tường nhà, lát đường, làm bờ kè...



Người Đường Lâm có nghề làm tương nổi tiếng. Nếu tương làng Bần, Hưng Yên lấy đỗ tương làm nguyên liệu chính thì tương của Đường Lâm lại lấy ngô để làm nên hương vị rất khác biệt. Làm tương được coi như bí quyết gia truyền của mỗi nhà. Chính vậy mà người Đường Lâm có câu “tương cà gia bản”. Mấy vị khách nước ngoài cùng đoàn với tôi vốn khó tính với vệ sinh an toàn thực phẩm vậy mà vừa chấm rau cải luộc với tương vừa tấm tắc khen ngon, trước khi rời khỏi nhà ông Thể họ cũng không quên mua thêm mấy chai tương về làm quà.

Từ ngày được công nhận là di tích lịch sử văn hoá quốc gia, du lịch đã khiến ngôi làng có nhiều thay đổi. Ngoài việc ra ruộng làm đồng, ở nhà làm tương, dệt vải hay làm bánh tẻ thì người dân nơi đây còn có thêm một nghề mới là làm du lịch. Cùng với gia đình ông Thể mà chúng tôi đến thăm còn có gia đình ông Huyến, gia đình bà Lan, gia đình ông Hùng cũng có hình thức đón tiếp khách tương tự. Nếu du khách nào muốn được nghỉ qua đêm dưới mái nhà cổ thì các gia đình này cũng cung cấp cả dịch vụ homestay với giá chỉ 50.000đ/đêm. Có gia đình còn mở dịch vụ cho thuê xe đạp để khách có thể thong dong khám phá từng con ngõ, từng ngôi nhà. Thanh niên thì tham gia vào đội ngũ hướng dẫn viên địa phương. Khách đến không chỉ thăm quan mà còn mua các đặc sản về làm quà như tương, chè lam, bánh tẻ. Tiền thu từ vé tham quan cũng được đóng góp để tu bổ các ngôi nhà cổ, các công trình đình chùa. Du lịch không chỉ giúp cuộc sống của người dân nơi đây cải thiện mà còn giúp họ hiểu, trân trọng và gìn giữ mái nhà cổ của mình hơn.



Chia tay Đường Lâm, chiếc xe ô tô 40 chỗ lại đưa chúng tôi trở về Hà Nội, để lại sau lưng bức tranh làng quê xinh đẹp với chiếc cổng làng nhỏ nhắn cùng những cánh đồng lúa trĩu bông đang chờ thu hoạch. Vẫn biết đô thị hoá đang ảnh hưởng rất nhiều lên cuộc sống nơi đây, nhưng tôi vẫn muốn trở lại Đường Lâm vào một ngày không xa.

Bạn có thể đến thăm một số ngôi nhà cổ ở Đường Lâm:

- Nhà ông Thể: Tel: 0343.831.827

- Nhà ông Hùng

- Nhà Bà Lan

- Nhà ông Huyến



Một số thông tin về Đường Lâm:

+ Đường Lâm là một xã thuộc thành phố Sơn Tây, Hà Nội, cách trung tâm thành phố khoảng 50km.

+ Được trao tặng Di tích lịch sử văn hoá quốc gia ngày 19/5/2006.

+ Đường Lâm có 956 ngôi nhà truyền thống. Trong đó có 140 ngôi nhà hơn 100 tuổi. Có nhà được xây dựng từ những năm 1649 (nhà ông Hùng).

+Văn hoá ẩm thực phong phú: thịt gà Mía, chè Cam Lâm, tương Mông Phụ, kẹo bột Đông Sàng, dưa gang Nam Nguyễn.

+ Một số di tích quan trọng khách du lịch nên tham quan: Lăng Ngô Quyền, Lăng Phùng Hưng, Nhà thờ Giang Văn Minh, Chùa Mía, Đình Mông Phụ, rặng ruối nghìn năm.



Box:

Đường Lâm là một địa chỉ mới trên bản đồ du lịch Việt Nam, là làng cổ đầu tiên được công nhận di tích lịch sử văn hoá quốc gia (2006). Đường Lâm không chỉ đẹp ở nét cổ kính mà còn đẹp ở truyền thống lịch sử hào hùng và đạo học cùng tấm lòng người. Đây là nơi sản sinh ra nhiều danh nhân như vua Ngô Quyền, Bố cái Đại vương Phùng Hưng, Thám hoa Giang Văn Minh, Phó thủ tướng Phan Kế Toại...